Lý Thái Tổ – người con tinh thần của Phật giáo, vị vua khai mở Thăng Long

Sáng nay, ngày 18/4/2018 (3/3 âm lịch), tại Điện Kính Thiên, khu di sản Hoàng thành Thăng Long, Trung tâm bảo tồn di sản Thăng Long – Hà Nội đã tổ chức Lễ dâng hương tưởng nhớ và kỷ niệm 990 năm ngày mất đức vua Lý Thái Tổ, vị vua đầu triều nhà Lý (1028- 2018).

 image001Các đại biểu cùng đông đảo du khách thập phương thành kính dâng hương tưởng nhớ đức vua Lý Thái Tổ.

Đức vua Lý Thái Tổ, huý là Lý Công Uẩn, sinh năm Giáp Tuất (974). Theo tấm bia có tên là “ Hoa Lâm Tam Bảo Thị”, bản dập tấm bia hiện lưu trữ tại Viện nghiên cứu Hán Nôm còn nguyên vẹn, ký hiệu lưu trữ 2985/2986. Tấm bia khẳng định Hoa Lâm là vùng quê nổi tiếng (danh hương) của ông nội, bà nội Lý Công Uẩn. Lăng miếu của cha và mẹ Lý Công Uẩn là ở đây. Ngay tấm bia Lý gia linh thạch, những người soạn bia cũng như viên lão các xã, thôn Đình Bảng, Dương Lôi, Tam Sơn, Tam Tảo, Tiêu Sơn Thượng, Tiêu Long ( tham gia trùng tu chùa Tiêu lúc đó) đã đồng thuận là: xã Hoa Lâm, huyện Đông Anh, Đông Ngàn là quê Phạm mẫu, mẹ Lý Công Uẩn, nay thuộc thôn Du Nội, xã Mai Lâm, tiếp liền Đông Hội, huyện Đông Anh, thành phố Hà Nội. Điều này được khẳng định không chỉ dựa vào thơ của Nguyễn Phi Khanh, câu đối của Nguyễn Tư Giản đều là người họ Nguyễn gốc Lý và ký ức của các bậc lão thành yêu quê hương, mà còn bằng văn bia quý hiếm cách đây hơn 3 thế kỷ. Thân mẫu của Ngài là Phạm Thị ( Ngà), khi lên 3 tuổi, thân mẫu đem ngài Lý Công Uẩn cho Thiền sư Lý Khánh Vân – chùa Dâu ( Pháp Vân) làm con nuôi. Năm lên 7 tuổi, Thiền sư Lý Khánh Vân đem gửi ngài Lý Công Uẩn học đạo với Thiền sư Vạn Hạnh – chùa Lục Tổ (chùa Tiêu Sơn) huyện Tiên Du, Bắc Ninh.

        Với bẩm tính thông minh, hiếu học, được hun đúc chốn cửa Thiền, Ngài Lý Công Uẩn được Thiền sư Vạn Hạnh cho học văn võ song toàn, chí khí cao thượng, trong cảnh đất nước vừa mới có độc lập tự chủ sau 1000 năm Bắc thuộc đang cần nền hoà bình phát triển đất nước, nhân dân được hạnh phúc phú cường. Chính những tác động ấy đã hun đúc ý chí yêu nước thương dân, sẽ góp phần xây dựng và phát triển đất nước của chàng trai nước Đại Việt họ Lý sau này.

        Khi Lý Công Uẩn trưởng thành, Ngài được Vạn Hạnh Thiền sư tiến cử vào kinh đô Hoa Lư làm tham chính triều Tiền Lê – Lê Đại Hành, chức vụ Tả thân vệ – Điện tiền chỉ huy sứ cho đến thời Lê Long Đĩnh (1005-1009).

        Sau khi vua Lê Long Đĩnh băng hà (1009), Ngài được Chi Hầu Đào Cam Mộc, bá quan văn võ và sự ủng hộ của Đại sư Khuông Việt, Vạn Hạnh v.v… tôn Lý Công Uẩn lên ngôi Hoàng đế, đổi niên hiệu năm Thuận Thiên thứ nhất (1009), kinh đô đặt tại Hoa Lư.

        Với tầm nhìn chiến lược lâu dài, liên quan đến điều kiện phát triển địa lý, văn hoá, xã hội, kinh tế, quốc phòng …, vua Lý Thái Tổ khi lên ngôi được 10 tháng, đến tháng 8 năm Canh Tuất (1010) đã quyết định dời đô về thành Đại La.

         Khi thuyền ngự cập bến sông Hồng, thấy rồng vàng hiện lên, Ngài đổi tên Đại La thành Thăng Long ( Hà Nội ngày nay).

         Định đô tại Thăng Long, nhà vua cho xây dựng quy hoạch kinh thành Thăng Long, xây dựng điện Càn Nguyên làm nơi vua thiết triều cùng với quần thần bàn việc nước, đổi tên cố đô Hoa Lư thành phủ Tràng An, Châu Cổ Pháp quê nhà thành phủ Thiên Đức (Bắc Ninh), cho xây cung điện, lâu đài …, xứng đáng là Kinh đô của nước Việt, đất nước ngàn năm văn hiến, trái tim của Tổ quốc Việt Nam muôn đời.

         Bên cạnh đó, Ngài đã nhiều lần ban chiếu xây dựng chùa trong nội, ngoại thành Thăng Long và quê hương Cổ Pháp như: Hưng Thiện, Đại Giác, Thiên Quang, Thiên Đức, Thiên, Hưng Long, Thắng Thọ, Phúc Lâm ở Hoa Lâm Viên……

           Năm 1024, cho xây chùa Chân Giáo trong thành để Nhà Vua đến tụng kinh, bái sám, hành lễ; thỉnh chư Tăng giảng kinh thuyết pháp cho văn võ bá quan và dân chúng thuận lợi nghe pháp, đượm nhuần ân pháp vũ.

          Năm 1027, cho sao chép Tam Tạng Kinh làm nhiều bản để phổ biến cho dân chúng nghiên cứu, tu học và tôn trí tại Tàng kinh các Bát Giác, Đại Hưng và những ngôi chùa trọng yếu trong thành Thăng Long.

         Ngài đã coi giáo lý đạo Phật làm nền tảng đạo đức căn bản, tổ chức trích yếu những lời dạy của Đức Phật qua Đại Tạng kinh và những lời khai thị, kệ ngôn, huấn thị của các Thiền sư, bấy giờ chùa vừa là nơi đào tạo con người, vừa là nhà trường tốt nhất để giáo dục đào tạo nên những con người có tài đức, như cư sĩ Tô Hiến Thành, Ngô Hoà Nghĩa, Lý Thường Kiệt, Lương Nhiệm Văn, Nguyễn Đạo Thành. Đặc biệt, đời Lý Nhân Tông thành lập Trường Quốc Tử Giám (1076) – Trường Đại học đầu tiên của Việt Nam, làm Lễ tắm Phật ( Phật Đản ), Đại lễ Vu Lan được tổ chức vào năm 1072; Hội đèn Quảng Chiếu tổ chức vào các năm 1110, 1116, 1120, 1128 dưới đời Lý Nhân Tông v.v… Với nền giáo dục nhân bản, từ bi, trí tuệ và rộng mở, có thể nói trình độ tri thức dân chúng được nâng cao, làm nền tảng cho mọi học thuật và kiến trúc Phật giáo thời Lý, dẫn đến đời Trần (1225 – 1400).

         Chiến lược quân sự được củng cố và phát triển, quân đội hùng mạnh và tinh nhuệ, với chiến thắng quân Tống. Thời Lý lãnh thổ  Đại Việt được mở rộng…

        Về sinh hoạt đời sống xã hội, dân chúng an cư lạc nghiệp, đất nước phồn vinh, văn minh, tiến bộ, thậm chí sứ thần nhà Tống đã khen: “ Là một xã hội ấm no hạnh phúc, dân chúng an cư lạc nghiệp, không bị thiên tai lũ lụt, đất đai mầu mỡ và luôn luôn phát triển, mở rộng thêm ”.

         Bằng tinh thần từ bi, bình đẳng, khoan dung, độ lượng của Phật giáo, tam giáo hài hoà đồng hành phát triển, nên từ vua quan đến dân chúng đều đượm nhuần tư tưởng Phật giáo, là điều kiện phát triển và sinh hoạt xã hội theo định hướng chung của đạo Phật. Phật giáo thời Lý, là xã hội thuần nhất, đạo đức, hướng thiện, ổn định và hoà bình thực sự có một không hai trong lịch sử Việt Nam và Phật giáo Việt Nam.

Trải qua các triều đại Lý, Trần, hậu Lê, Tây Sơn, nhà Nguyễn, đến thời đại Hồ Chí Minh, Thăng Long – Hà Nội, vẫn tiếp tục là nơi hội tụ và lan toả sức sống muôn đời của Tổ tiên, của các vị tiền bối có công đối với đất nước và dân tộc cũng như Phật giáo Việt Nam, trung tâm văn hoá của cả nước luôn luôn phát triển không ngừng, giữ gìn bản sắc văn hoá dân tộc, lịch sử hồn thiêng sông núi oai hùng. Rồng vàng phất phới bay cao – Sông Hồng nước chảy đổ vào biển Đông, tạo được tình Hữu nghị đoàn kết năm châu, bốn biển – Rồng bay muôn vạn nẻo đường – Con rồng Châu á xứng danh ngàn đời, trong thời kỳ hội nhập và phát triển thế giới toàn cầu. Quả thực: “ Nhớ thuở mang gươm đi mở cõi. Ngàn năm thương nhớ đất Thăng Long ” (Huỳnh Văn Nghệ).

Một số hình ảnh tại Lễ dâng hương

image003Lễ dâng hương được tổ chức trang trọng tại sân rồng Điện Kính Thiên.

image005Các thầy cô giáo và các em học sinh Trường Tiểu học Lý Thái Tổ thành kính tri ân công đức của đức vua đã có công khai mở Thăng Long, dựng xây quốc gia Đại Việt.

image007Quang cảnh Lễ dâng hương.

image009 Đ/c Phạm Quang Nghị – nguyên bí thư Thành Ủy Hà Nội chụp ảnh lưu niệm tại Thềm Rồng Điện Kính Thiên.                                                               

                                                            Bài: Trường Lương (tổng hợp)

                                                             Ảnh: Quốc Dũng

Bài viết cùng chủ đề

Back to top button